Tìm hiểu nguồn gốc sâu xa về chiếc khẩu trang N95 đầu tiên
Tháng Mười Hai 4, 2020
Khẩu trang N95 – Một trong những trang bị bảo hộ y tế quan trọng nhất hiện nay đã trải qua hàng trăm năm phát triển và hoàn thiện. Dù nhìn và sử dụng hàng ngày, nhưng có bao nhiêu người trong chúng ta biết rõ nguồn gốc và lịch sử hình thành của chúng. Bài viết dưới đây sẽ mang đến cho bạn câu trả lời:

1. Những thiết kế khẩu trang đầu tiên
Thật khó tìm được biểu tượng nào phù hợp với đại dịch Covid-19 hơn chiếc khẩu trang N95. Chiếc khẩu trang ôm khít khuôn mặt, có khả năng lọc tới hơn 95% các hạt li ti có trong không khí (Bụi mịn PM 2.5), virus, khói độc…
Điều mà các loại thông thường như khẩu trang vải, khẩu trang y tế không thể làm được. Một miếng chụp polymer mỏng manh trở thành thiết bị y tế quan trọng nhất thế kỷ 21, tại sao lại vậy? Chắc hẳn bạn cũng tò mò giống tôi! Mọi chuyện bắt đầu năm 1910, xuất phát từ một vị bác sĩ vô danh – Người muốn thế giới thoát khỏi một trong những căn bệnh tồi tệ nhất thế kỷ.
1.1. Chiếc khẩu trang đầu tiên được sử dụng để tránh “ngửi thấy mùi”
Christos Lynteris – Giảng viên cao cấp tại Khoa Nhân loại Xã hội học của trường Đại học Saint Andrew sau nhiều nghiên cứu đã cho rằng vi khuẩn và virus có thể phát tán trong không khí và gây bệnh cho con người. Tuy thời đó, mọi người đã sử dụng khẩu trang che mặt, nhưng không hẳn là để ngăn ngừa sự lây lan của bệnh tật. Họ cho rằng, những căn bệnh như dịch hạch xuất hiện là do chướng khí hay khí độc bốc lên từ dưới mặt đất. Do vậy, hàng loạt chiếc khẩu trang đã ra đời khắp Châu Âu vào những năm 1960.

Mọi người truyền tai nhau rằng chỉ cần đeo khẩu trang để khỏi ngửi thấy mùi của bệnh dịch hạch thì họ sẽ không bị nhiễm căn bệnh chết người này. Các bác sỹ là người được giao nhiệm vụ xác định dịch bệnh – Họ sẽ đeo các mặt nạ này rồi đánh đấy người bệnh bằng cách gõ gậy vào đó.
Christos Lynteris chỉ vào bức tranh thời Phục hưng và nói đây là bối cảnh của Marseilles, Pháp năm 1720, nơi từng là tâm chấn của bệnh dịch hạch. Các nhân vật đang che mũi bằng loại mặt nạ để tránh bệnh tật.Những chiếc mặt nạ này có hình thon dài mô phỏng lại mỏ chim. Trên mặt nạ có 2 lỗ thở ở cạnh và có thể đặt nhang (Hoặc hương) vào đó.

Phải đến những năm 1870, khi các nhà khoa học biết nhiều hơn về vi khuẩn thì quan niệm chướng khí mới dần được bác bỏ. Và đó cũng là lúc khai tử thiết kế kinh dị của chiếc mặt nạ phòng độc trên.
1.2. Sự xuất hiện của khẩu trang phẫu thuật nhưng… chỉ là miếng vải quấn quanh mặt
Từ năm 1897, các bác sĩ mới đeo khẩu trang phẫu thuật khi làm việc. Chỉ có điều vào thời điểm đó, chúng không khác gì một chiếc khăn mùi soa quấn quanh mặt, chúng cũng không thể lọc được các hạt mang bệnh trong không khí. Chúng được tạo ra với mục đích duy nhất là ngăn bác sĩ ho hoặc hắt hơi vào vết thương khi phẫu thuật.
Đây chính là tiền đề quan trọng nhất để phân biệt giữa khẩu trang và mặt nạ phòng độc. Thực tế thì các chuyên gia y tế đã rất lo lắng khi họ phải hướng dẫn cách đeo khẩu trang phẫu thuật khi tiếp xúc với các bệnh nhân Covid 19. Thường thì các loại mặt nạ phòng độc không chỉ làm từ vật liệu khác so với khẩu trang mà chúng còn hoàn toàn khít với khuôn mặt để việc lọc không khí hiệu quả tối đa.
2. Mặt nạ phòng độc lần đầu xuất hiện – Sinh ra từ bệnh dịch và sự kỳ thị
Mùa thu năm 1910, một loại bệnh dịch bắt đầu bùng phát tại Mãn Châu – Đây là khu vực tranh chấp giữa Nga và Trung Quốc (Ở thời điểm đó). Dịch bệnh này gây ra tỷ lệ tử vong cao khủng khiếp. “100% người nhiễm bệnh không có ai sống xót và họ cho rằng nguyên nhân của dịch bệnh là từ bọ chét” – Ông Lynteris cho biết. Điều này đã thúc đẩy một cuộc chạy đua về y tế và khoa học. Cả Nga và Trung Quốc đều muốn chứng tỏ khả năng khoa học của mình nhằm mục đích đưa ra các yêu sách về chủ quyền.
Phía Trung Quốc cử một bác sĩ trẻ có tên Wu Lien nghiên cứu về dịch bệnh này. Sau quá trình khám nghiệm một tử thi, Wu nhận định dịch bệnh này lây lan qua không khí chứ không phải qua bọ chét như nhiều người vẫn nghi ngờ.

Với niềm tin ấy, cộng thêm sự hiểu biết từ những chiếc khẩu trang phẫu thuật mà ông từng thấy ở phương Tây, Wu đã thiết kế nên loại măt nạ vững chãi hơn từ băng gạc và bông. Loại này có thể quấn kín quanh mặt và được bổ sung nhiều lớp vải để lọc không khí. Phát minh đó của Wu được xem là một bước đột phá cực lớn, nhưng Wu chỉ nhận lại được những ánh mắt ngờ vực và miệt thị của đồng nghiệp.
Lynteris cũng có biết: “Khi Wu giải thích với một bác sĩ người Pháp về giả thuyết của mình rằng dịch bệnh này là viêm phổi và lây qua đường không khí thì ông người Pháp này đã lăng mạ Wu. Ông ta nói chúng ta có thể kỳ vọng điều gì từ một người Trung Quốc chứ. Và để chứng minh điều mình nói, ông ta đã đi vào chăm sóc người trong bệnh viện mà không đeo mặt nạ của Wu. Kết quả là ông người Pháp đã chết 2 ngày sau đó vì căn bệnh này”
Cho dù các bác sĩ trong khu vực đó cũng đã nhanh chóng phát triển mặt nạ của riêng mình nhưng có lẽ không ai qua được cái bóng của Wu. Nó là một thiết kế tuyệt vời, có thể làm bằng tay từ những vật liệu rẻ tiền và có sẵn.
Kể từ 1 – 2/1911, việc sản xuất khẩu trang được gia tăng với tốc độ chóng mặt và hầu hết mọi người đều đeo nó. Từ các nhân viên y tế, binh lính đến cả người bình thường cũng đeo chúng hàng ngày. Mặt nạ của Wu không chỉ giúp ngăn chặn sự lây lan từ dịch bệnh mà còn trở thành biểu tượng của y học hiện đại.
Đến năm 1918 – Sự xuất hiện của dịch cúm Tây Ban Nha đã khiến mặt nạ của Wu nổi tiếng hơn trong giới khoa học cũng như công chúng. Rất nhiều công ty, tập đoàn lớn trên thế giới tăng cường sản xuất mặt nạ như vậy để giảm bớt sự lây lan của dịch cúm.

3. Cuối cùng thì khẩu trang N95 đã ra đời
Khẩu trang N95 chính là hậu duệ từ khẩu trang của Wu. Trong chiến tranh thế giới thứ I và thứ II, các nhà khoa học đã sáng tạo ra một loại mặt nạ phòng độc bao kín đầu người, có tác dụng làm sạch khí thở. Không những kín mít, loại mặt nạ này còn được lót thêm cả bộ lọc sợi thủy tinh.
Dù kết quả trong việc bảo vệ sức khỏe tương đối cao nhưng chúng lại khá cồng kềnh và nặng nề, lý do nằm ở bộ lọc. Và nó không phù hợp với những người phải làm việc trong môi trường xây dựng khi họ phải thường xuyên hít thở amiăng nhưng lại không muốn đeo mặt nạ vì ở công trường khá nóng.

Cuối cùng thì đến năm 1970, Cục Mỏ và Viện Sức khỏe và An toàn Quốc gia cũng đã đưa ra những tiêu chí đầu tiên cho “mặt nạ phòng độc sử dụng một lần”. Và hãng 3M chính là công ty đầu tiên phát triển nên loại khẩu trang ngăn bụi N95 sử dụng một lần. Loại khẩu trang này đã được hoàn toàn chấp thuận vào năm 1972.
Thay vì sử dụng sợi thủy tinh như thông thường, công ty đã tái sử dụng một công nghệ mà họ đã từng phát triển để làm các dải băng cứng hơn cho bộ lọc. Họ đã sử dụng polymer nóng chảy rồi thổi nó vào các lớp sợi nhỏ khiến sợi này trở nên cứng hơn và dùng chúng làm bộ lọc.
Các hạt bụi có trong không khí, dù là hạt silic hay virus…khi đi qua bộ lọc này cũng sẽ bị mắc kẹt bên trong và không thể thâm nhập vào được hệ hô hấp của con người. Bên cạnh đó, 3M còn bổ sung thêm điện tích cho vật liệu lọc này giúp chúng ngăn ngừa được các vi hạt nhỏ hơn mà vẫn có thể hít thở dễ dàng vì lỗ trống giữa các sợi này là khá lớn.
Tuy nhiên, đến một thời điểm nhất định nào đó, khi chỗ trống này được những vi hạt lấp đầy, việc hít thở sẽ khó khăn hơn. Đó là lý do vì sao khẩu trang N95 không nên dùng lâu hơn 8 tiếng/ lần, nhất là trong môi trường nhiều bụi.
Sau nhiều thập kỷ thì khẩu trang N95 cũng được sử dụng trong nhiều ngành công nghiệp khác nhau. Và nhu cầu sử dụng khẩu trang một lần nữa tăng vọt vào những năm 1990 khi bệnh lao kháng thuốc quay trở lại.
Để ngăn ngừa virus, vi khuẩn phát tán trong không khí, khẩu trang N95 nghiễm nhiên trở thành trang bị tiêu chuẩn của nhân viên chăm sóc sức khỏe. Bác sĩ và bệnh nhân đều sử dụng loại mặt nạ này.
Công bằng mà nói, N95 không phải là hoàn hảo. Chẳng có bất kỳ điều gì trên thế giới này đạt sự hoàn hảo đến 100%. Nó được thiết kế để bó sát vào mặt người dùng, kể lcả là trẻ em, người già hay người có râu quai nón. Nhưng nếu không được gắn kín, không sử dụng đúng cách thì chúng cũng không hoạt động tốt như lời quảng cáo.
Tuy nhiên khẩu trang N95 đã có hàng trăm năm phát triển và đối phó với những cuộc khủng hoảng khác nhau. Dựa vào khoa học, nhu cầu tiêu dùng mà những “biến thể” của N95 đã bắt đầu xuất hiện theo hướng tích cực, ví dụ như gắn thêm van thở trên khẩu trang, bổ sung thêm lớp lọc nano, vải than hoạt tính…giúp khẩu trang N95 bảo vệ người dùng một cách tốt nhất. Và chắc chắn rằng, công cuộc phát triển đó sẽ tiếp tục diễn ra kể cả khi đại dịch Covid đã đi qua.

Hy vọng rằng bài viết dưới đây đã giúp bạn hiểu rõ hơn về lịch sử hình thành và phát triển của chiếc khẩu trang chống bụi N95. Nếu còn bất kỳ thắc mắc nào, hãy liên hệ ngay với chúng tôi để được tìm hiểu thêm bạn nhé!
Nguồn: Monamask.com